1. Vật cổ truyền đóng vai trò quan trọng trong dựng nước giữ nước
Ngay từ thời xa xưa, khi bộ môn này mới được khai sinh, đấu trường vật không chỉ là nơi các chàng thanh niên đọ sức, mà còn là phương pháp giúp triều đình đào tạo và tuyển chọn nhân tài giúp dân giúp nước. Ngay từ thời kỳ đầu của lịch sử, các anh hùng dân tộc cứu dân giúp nước phần lớn đều là những đô vật nổi tiếng trong dân gian, được nhân dân kính trọng và thờ phụng đến ngày nay như: Lý Ông Trọng (Lý Thân), Đô Lỗ (Cao Lỗ), Đô Nồi (Nồi Hầu) Theo Thần tích đền Nghè, trong trận chiến đánh đuổi quân Đông Hán của Hai Bà Trưng năm 40-43, bà Lê Chân đã huấn luyện 3 quân bằng cách dựng đài thi võ và luyện vật toàn quân. Tương tự như vậy, lò vật nổi tiếng 3 miền của Dương Đình Nghệ ở Thanh Hoá đã sản xuất ra nhiều đô vật giỏi ra giúp Ngô Vương Quyền đánh đuổi quân Nam Hán (năm 939), gây dựng nền độc lập cho đất nước. Trong thời Trần, Đội Đô vật Xuân Trường đã góp phần tạo chiến công hiển hách thắng quân Mông Nguyên, một đoàn quân hùng mạnh, có lối vật Mông cổ khét tiếng đương thời. Dù thời bình hay thời chiến, các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần và tiếp theo sau nữa, đều coi trọng bộ môn vật trong việc tổ chức quân độ gìn giữ bờ cõi. Nhiều đội vật được thiết lập trong quân ngũ, và các trận đấu vật được tổ chức thường xuyên nhằm rèn luyện thể lực, lòng dũng cảm, tuyển lựa nhân tài và giải trí trong quân sĩ.2. Đấu vật từng là bộ môn thể thao yêu thích nhất của toàn dân
3. Phương thức tập luyện độc đáo
Các đô vật, trên sân đấu hùng hổ là thế, thực ra chính là những chàng tranh niên trai tráng hiền lành trong làng. Tuy cuộc sống đồng áng vất vả, bận rộn, nhưng được lúc nào rảnh rỗi, họ sẽ rủ nhau tập dượt vật rồi chỉ bảo lẫn nhau. Ai có miếng võ nào hay, ngón vật nào độc đáo thì lại truyền dạy cho anh em cùng tập. Những ngày giáp Tết Nguyên Đán, nếu trong làng có ông thày võ, họ đến tụ tập tại nhà ông thày để luyện tập thêm; làng nào không có thì cử người đi đón thày ở lò võ, lò vật các làng lân cận về để dậy. Trang phục khi tập luyện cũng như khi lên đài đấu của các đô vật là đóng có mỗi một cái khố và ở trần, không có đai đẳng gì cả, trên đầu chít khăn đầu rìu hay chít khăn bỏ tua. Khố là một miếng vài dài có nhiều màu, nào đỏ, nào xanh, nâu hay vàng, hồng, tím,… được cuốn vào như một cái quần sì-líp4. Kỹ thuật đơn giản, không rườm rà
5. Nghi lễ đặc trưng
Đọc thêm: 5 Môn Phái Võ Thuật Việt Nam Bạn Nên Biết
6. Mánh lới trong đấu vật
- Kê: dùng hông hoặc vai làm điểm tựa để quăng ngã đối thủ.
- Ngáng (hay Cản): dùng chân quét hay gạt, cản chân đối thủ làm mất thăng bằng cho té ngã.
- Đệm: dùng đầu gối, hay bắp đùi, lót đằng sau chân đối thủ rồi dùng sức mạnh của mình gait, đẩy, xô đối phương té ngửa ra.
- Vét: đang vờn nhau, nhử cho đối thủ tiến lại gần, nhanh chóng cúi người xuống, chân trái gập hạ thấp, chân phải rút về sau duỗi thẳng, đồng thời tay phải đưa lên ấn mạnh vào vai trái đối thủ, bàn tay bắt chặt lấy kheo sau chân trái đối thủ giật mạnh về phía mình.
- Bắt Để Hớt Gót: Hai đô vật đối diện sát vào nhau (mà chưa lồng tay tư) một người bất ngờ dùng hai tay bắt chặt lấy cánh tay phải đối phương. Chân phải và người lập tức xoay chếch sang phía bên phải, người cúi thấp hai chân dạng ra hai bàn chân rê mạnh và nhanh, lùi chếch về phía sau, đồng thời dùng hai tay kéo mạnh đối phương về phía mình. Khi đối phương đang mất đà hơi chúi về phía trước thì lập tức ta hạ tay trái xuống, từ phía trong dùng bàn tay phải bắt và hất mạnh cổ chân trái đối phương ra đằng sau. Thuận bên nào, làm bên ấy.
- Bốc Một Chân:
- Tư thế bất ngờ: Hai đô vật đứng sát và đối diện, một trong hai người bất ngờ hất hai tay của đối phương lên và người phải nhanh chóng chuồi dài ra phía sau, lúc này chân trái đặt trước, chân phải đặt ở phía sau, đầu cúi xuống, dùng vai ấn vào thân thể đối phương, đồng thời dùng hai tay bốc khoeo chân phải đối phương giật mạnh về phía mình, đối phương bị mất thăng bằng bởi hai lực nên ngã ngửa.
- Tư thế giằng co: Tay phải bá cổ đối phương, tay trái nắm cánh tay trên, tay phải đối phương, dầu cúi xuống dựa vào gáy phía phải đối phương, chân trái phía trước, chân phỉ phía sau. Tay trái nắm vào cánh tay phải đối phương, ghì vào sát người mình. Đồng thời bước nhanh chân phải về phía trong lòng đối phương, cúi người xuống dùng hông mình hất mạnh đối phương ra phía sau cho ngã.
- Đánh Gãy: Đang lồng tay tư, bất ngờ đổi hai tay vào phía trong cánh tay đối phương, bàn tay trái mở nay mạnh vào cổ bên phải, bàn tay phải xốc nách trái đối phương, kéo mạnh về phía mình, đồng thời nghiêng người dùng sườn trái hất mạnh, chân phải hất chân đối phương cho té ngã.
- Tay Quai: Đang lồng tay tư, bất ngờ chuyển hai tay vào phía trong hai cánh tay đối phương, tay phải luồn qua dưới nách trái đối phương, tay trái luồn qua trên vai đối phương đều ra sau long và hai bàn tay nắm chắc lấy nhau ghì chặt đối phương. Rồi bất ngờ dùng tay phải nay mạnh đối phương ra sau, cánh tay trái kéo mạnh đối phương về phía mình. Đồng thời nghiêng mình dùng sườn phải đánh mạnh và châm phải hất chân đối phương cho té ngã.
- Nằm Bò (hay Hạ Thổ): khi bị xa cớ lỡ miếng hay khi gặp đối thủ mạnh hớn, họ thường nằm sãp xuống mặt đãt, tay chân dang rộng ra, mặc cho đối thủ tha hồ đẩêy, bê, bứng, nhấc hổng, để rồi liệu cơ hội đánh lừa đối thủ, lợi dụng lúc đối thủ sơ hở thì lập tức chồm dậy tấn công lại.
7. Luật lệ trong đấu vật
Trong thượng đài đấu vật, khác với các giải đấu võ thuật hiện đại, tuổi tác hay hạng cân nặng của thí sinh không quan trọng. Để giành chiến thắng, cần nhấc bổng địch thủ hổng cả hai chân lên khỏi mặt đất (“Túc Ly Địa”) được coi là thắng, hổng một chân thì không tính. Ngoài ra, vật đối phương té ngã ngửa, lưng vai chạm mặt đất thì thắng (“Lấm Lưng Trắng Bụng”), ngã xấp không tính. Vật không có hòa, phải xác định một thắng một thua (thắng tuyệt đối hay thắng điểm). Ngoài ra không được đấm đá, hay sử dụng những chiêu ăn gian như bấm huyệt, móc xương quai xanh, chẹn hàm, bẻ cổ, lên gối, nắm tóc, xé khố đối thủ, hay khi bị té ngã rồi không được móc chân cho đối thủ ngã theo, v.v…8. Giải vật
- Giải Thờ (hay Giải Hàng)
- Giải thờ còn được gọi là Giải Xông Sới, không có người giữ giải. Ai muốn lên vật thì ghi tên rồi bắt cặp. Ai thắng thì được làng thưởng. Tranh Giải Thờ chỉ là mở đầu cho ngày Hội Vật, để cho những ai muốn khảo sức nhau thì lên bắt cặp, và có nhiều Giải Thờ trong một ngày. Ở giải này khi vật hai đối thủ thường không dùng hết sức, chỉ cốt phô bày nghệ thuật, vật cho đẹp, cho vui, có khi cả hai cùng té ngã cho cả làng cùng cười. Thay vì vật nhau để giành chiến thắng thì các đô vật trong Giải Thờ chọn múa may tăng tính giải trí cho khán giả là chính.
- Giải Chính.
- Giải Chính có ba giải: giải nhất, giải nhì và giải ba. Ba giải này đều có người xin giữ. Các đô vật tứ xứ muốn phá giải nào thì xin ghi tên để vật với người giữ giải ấy. Nếu không có ai xin phá giải trong ba ngày, theo lệ làng, thì người giữ giải đương nhiên được lãnh giải mình giữ (Giải Cạn).
- Trong ba Giải Chính này thì giải ba phải được phá trước rồi mới tới giải nhì, và giải nhất.
9. Thượng đài
Vào ngày hội vậy, tất cả mọi người trong làng, già trẻ, trai gái đều bỏ mặc hết mọi công việc nhà, rủ nhau tụ tập đông đảo trước sân đình để dự khán. Các đô vật trong làng đều ghi tên dự thí. Những đô tứ xứ, ở các làng lân cận muốn xin dự thí phải mang lễ vật đến để xin cúng thần. Tùy theo lệ làng, có nơi lễ vật là đĩa sôi gấc, hay nhánh cau với vài lá trầu, hoặc bó hoa, trái cây hoa quả , hoặc thẻ nhang,… Bãi cỏ phẳng rộng trước sân đình làng được dùng làm đấu trường, ở giữa được kẻ vạch một vòng tròn, đường kính khoảng 6 mét bằng vôi trắng, vòng tròn này được gọi là sới vật. Có nơi sới vật là hình vuông mỗi cạnh tám mét, có nơi sới vật được đóng dóng bằng tre chung quanh, có nơi sới vật nằm dưới đáy ao nông cạn đã tát hết nước và khơi khô trước sân đình để dân làng, khán giả đứng chung quanh bờ xem cho rõ (sân này còn được dùng để đánh cờ người). Hai bên sới vật là hai hàng cờ đuôi nheo ngũ hành gồm năm mầu xanh, đỏ đen vàng trắng, mỗi bên năm lá cờ. Hai bên tả hữu trước sới vật là hai cái trống cái (trống lớn), có nơi chỉ dùng một trống thôi, và những hàng ghế danh dự dành cho quí vị chức sắc trong làng và hàng tổng. Hai vị đàn anh trong dân được cử đánh trống cái, gọi là “cầm chịch”, nghĩa là làm nhiệm vụ của trưởng ban Trọng tài cuộc đấu. Giữa hai trống cái đó là bàn thờ thần, và phía dưới, trước mặt bàn thờ, được trải một chiếc chiếu cạp điều để các đô lễ thần trưôc và sau khi giao đãu. Có điều họ lễ thần không bằng cả hai tay như bình thường mà chỉ lễ lên gối xuống gối chống một tay trái thôi. Ngay giữa sới vật có ba người tuần đinh, làm nhiệm vụ của trọng tài phụ. Hai trong ba người này, mỗi người cầm một lá cờ đuôi nheo nhỏ phất phẩy làm hiệu lệnh vật, người thứ ba cầm một trống lưng (trống nhỏ) để gõ nhẹ khuyến khích, thúc dục hai đô tấn công tiếp.Kết
Dù nhiều năm tháng đã trôi qua và đấu vật cũng không còn quá phổ biết với công chúng, những giá trị văn hoá và tinh thần của bộ môn này sẽ vẫn còn sống mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Chúng tôi hy vọng bài viêt trên đã giúp bạn hiểu thêm phần nào về những nét tinh tuý của bộ môn này. Võ phục Tân Việt luôn vinh dự được đồng hành cùng các môn sinh đưa võ thuật cổ truyền Việt Nam phát triển lớn mạnh hơn nữa. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi nếu bạn đang tìm kiếm một cơ sở uy tín để mua võ phục và các dụng cụ võ thuật. Bài viết có tham khảo thông tin từ: maxreading.comĐồng hành cùng Võ Thuật Việt Nam từ năm 1962, Tân Việt là nhà cung cấp võ phục và dụng cụ võ thuật hàng đầu của các Huấn Luyện Viên lâu năm cùng hàng nghìn cá nhân đam mê và yêu thích võ.